Nhãn, vải là cây trồng phổ biến ở các vùng trung du và miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng như Hưng Yên, Hải Dương, các tỉnh Bắc Trung Bộ… và là cây trồng chủ lực của nhiều địa phương.
Nhãn, vải được trồng trong vườn nhà nhiều, được trồng tập trung ở các nông trại cũng rất nhiều.
Dưới đây là các loại sâu hại nhãn, vải phổ biến nhất.
Sâu đục thân nhãn vải
(Aristobia testudo)
Triệu chứng bệnh
Sâu non đục vào thân cây, hướng về phía gốc. Trên miệng lỗ đục thường có phân sâu đùn ra ngoài. Đến tháng 6 năm sau sâu non hoá nhộng và tự đục lỗ chui ra ngoài. Những cây, cành bị sâu đục thân sẽ còi cọc kém phát triển, lá nhỏ bị vàng hơn, cây cho năng suất quả kém, gây chết cành thậm chí là chết cả cây.
Đặc điểm phát sinh, phát triển
- Nhộng hoá trưởng thành vào tháng 6-7, sau khi giao phối, con cái đẻ trứng vào các kẽ vỏ cây. Trưởng thành dài 30-33mm, phần đầu ngực và bụng có màu đen, miệng nhai phát triển, lưng có màu vàng đậm, vân đen chia cánh thành hình mai rùa.
- Sâu non có màu trắng ngà, đầu có màu đen, có miệng nhai rất phát triển.
Biện pháp phòng trừ
- Phát hiện kịp thời các lỗ sâu đục thân và phòng trừ kịp thời.
- Bắt bằng tay lúc trưởng thành ra rộ (tháng 5).
- Dùng gai mây luồn vào lỗ đục để bắt và giết sâu non.
- Cắt cành mới héo từ dưới lỗ đục mới nhất 20 cm đưa ra ngoài đốt.
- Khi sâu non đã lớn, bịt kín lỗ không cho sâu trưởng thành chui ra ngoài.
- Phun thuốc trừ sâu: Sau khi phát hiện ra lỗ đục, dùng xi lanh tiêm thuốc sâu vào lỗ đục bằng các thuốc trừ sâu đục thân
Bọ xít hại nhãn vải
(Tessaratoma papillosa Drury)
Triệu chứng
Sâu non và sâu trưởng thành của bọ xít vải đều hại cây. Chúng chích hút dinh dưỡng ở các chồi non, quả non, gây ra hiện tượng hoa, rụng quả.
Đặc điểm phát sinh, phát triển
- Là loài sâu hại biến thái không hoàn toàn, có 3 pha phát triển là trứng-sâu non và trưởng thành. Sâu trưởng thành sống, chích hút cây và qua đông trên nhãn vải hoặc tránh rét ở cây dứa và các cây khác ven bờ sông, bờ suối. Khi đến mùa xuân, thời tiết ấm áp vải nhãn ra lộc, bọ xít trưởng thành tập trung về nhãn vải giao phối và đẻ trứng. Bọ xít trưởng thành bắt đầu đẻ trứng vào giữa tháng 3, chúng thường đẻ vào buổi sáng. Trứng đẻ ở mặt sau của lá, đôi khi đẻ ở chùm hoa, mỗi ổ từ 13-14 quả. Mỗi con cái đẻ được 64-68 quả. Trứng mới đẻ có màu xanh lục, khi gần nở chuyển sang hồng-đen. Thời gian trứng từ 11-15 ngày tuỳ thuộc vào nhiệt độ.
- Trứng bọ xít bị nhiều loài ong ký sinh, đó là Anatatus aff. Japonicus và ong Oeneyrtus fongi Tryapizin.
- Sâu non có 5 tuổi, tuổi 1-2 sống tập trung, tuổi 3-4 sống phân tán.
Biện pháp phòng trừ:
- Khi mùa xuân về, bọ xít trưởng thành tập trung trở về nhãn vải để giao phối đẻ trứng với mật độ cao và khá tập trung do đó có thể bắt và diệt trưởng thành.
- Khi bọ xít đẻ, trứng thường tập trung ở mặt sau của lá, quan sát và ngắt bỏ các ổ trứng (chỉ áp dụng được với cây ít tuổi, tán thấp)
- Sử dụng 2 loài ong ký sinh Anatatus aff. Japonicus và ong Oeneyrtus fongi Tryapizin. vào cuối vụ vì tỉ lệ ký sinh ở trên rất cao vào cuối vụ (tháng 6).
- Để trừ bọ xít trưởng thành có hiệu quả cao nên phòng trừ trước khi bọ xít giao phối và đẻ trứng.
Bọ xít non nên trừ khi chúng còn sống tập trung (tuổi 1, 2 hoặc đầu tuổi 3) trước khi chúng phân tán ra quả non gây hại.
Nhện lông nhung hại nhãn vải
(Eriophyes litchii Keifer)
Dấu hiệu của bệnh
- Nhện trưởng thành di chuyển và xâm nhập vào các chồi non mới nhú, sinh sống và đẻ trứng. Sâu khi lá non mở ra được 1-1,5cm đã xuất hiện những sợi lông nhung. Ban đầu vết lông nhung có màu xanh hơn bình thường, sau đó chuyển sang màu trắng bạc, trắng hơi vàng rồi vàng nâu và cuối cùng chuyển sang nâu sẫm. Nhện lấy dinh dưỡng từ lá làm cho lá sinh trưởng phát triển kém, nhỏ và cong queo, có lớp lông nhung dày đặc ở mặt sau làm ảnh hưởng xấu đến khả năng quang hợp.
- Những hoa có nhện lông nhung sinh sống thường không có khả năng nở hoa và thụ phấn. Những quả non có nhện lông nhung sinh sống thì quả không lớn lên được và sau đó đều bị rụng.
Đặc điểm phát sinh, phát triển của bệnh
- Ở miền Bắc nhện phát sinh quanh năm, vụ xuân nhện phát sinh mạnh nhất và gây thiệt hại nhiều hơn vụ hè, vụ thu và vụ đông.
- Nhện đẻ trứng đơn tại gốc các sợi lông nhung, thời kỳ trứng 2,5 ngày, nhện có 5 tuổi.
- Vòng đời từ 15-19 ngày tuỳ điều kiện nhiệt độ.
- Nhện lông nhung lây lan qua gió. Khi tới nơi ở mới nhện tiếp tục sinh sản, khi lông nhung trên lá có màu vàng nâu là lúc thế hệ cuối cùng của nhện đã trưởng thành, lá đã già không còn thích hợp cho nhện lông nhung sinh sống và nhện bắt đầu di chuyển đi tìm nơi cư trú mới.
- Thời gian bắt đầu xuất hiện những sợi lông nhung đầu tiên đến khi nhện bỏ đi là từ 50-58 ngày.
- Những chồi có nhện lông nhung sinh sống thì hầu hết những lá non đều bị lông nhung.
- Nhện lông nhung gây hại trên lá và quả non
Biện pháp phòng bệnh
- Thu gom, ngắt bỏ những cành lộc bị lông nhung. Biện pháp này phải được thực hiện trước khi lông nhung có màu vàng nâu.
- Khi các lộc non vừa nhú, phòng trừ muộn hiệu quả phòng trừ sẽ thấp.
- Sử dụng các loại thuốc hoá học chuyên trừ nhện khi có dấu hiệu bệnh phát triển mạnh